Tôi bắt đầu tập Yoga vào khoảng Trung thu năm 1977, đã đạt được một số kết quả và thu thập được một số kinh nghiệm. Có anh bạn nhờ tôi trình bày quá trình luyện tập cùng kinh nghiệm ấy.
Trước hết tôi xin trình bày những kết quả tôi thu được từ ấy cho đến nay. Trước khi tập, tôi đã đọc qua một số sách viết về Yoga do người Pháp viết và đọc đi đọc lại nhiều lần cuốn “Les Yogas pratiques” của SVIVEKANANDA. Tôi đã hiểu phần nào những nét chính của nền triết học Ấn Độ làm nền tảng cho Yoga. Tôi hiểu rằng Yoga là một phương pháp tu luyện, cứu cánh đưa con người trở về hòa hợp với chân không và đạt đến CHÂN, THIỆN, MỸ. Tuy nhiên, khi tập Yoga, tôi không nhằm mục đích cao xa ấy, không có cao vọng nhờ Yoga đưa mình đến Chân, Thiện, Mỹ. Tôi tin tưởng vào nội dung 4 câu sau của ngài Lục Tổ Huệ Năng, nói rằng: “Phật pháp tại thế gian / Bất ly thế gian giác / Ly thể mịch Bố đề / Tức như tấm thổ giác”. (Chân lý ở tại cõi đời này, không thể lánh cõi đời mà tìm chân lý, lánh cõi đời mà tìm chân lý, khắc nào tìm sừng con thỏ).
Tham khảo thêm: 7 Trường phái Yoga cổ điển đích thực
Nhìn vào xã hội này, chúng ta thấy bao điều xấu xấu; tuy nhiên, tôi tin rằng bên cái xấu có cái tốt, cái tốt do cái xấu biến cải thành ra. Chẳng qua trong tình hình hiện tại, cái xấu thuộc đa số, cái tốt thuộc thiểu số; nhiệm vụ của thiểu số tốt là kết hợp lại, kiên trì tích cực đấu tranh biến cải cái xấu và tin tưởng chắc chắn rằng cuối cùng cái tốt sẽ thắng.
Tôi cũng không mong nhờ Yoga mà có được những phép thần thông, biến hóa khôn lường hay huy động được những tiềm năng sâu ẩn của cơ thể mình, đạt được những khả năng siêu phàm, kỳ diệu. Điều tôi mong chờ ở Yoga là sức khỏe. Tôi xin nói sơ qua lý do tại sao tôi chú trọng đến sức khỏe hơn cả. Tôi là một người mà theo y học Đông phương, gọi là “tiên thiên bất túc” nghĩa là tôi sinh ra thiếu tháng, mới 8 tháng đã ra đời, thiếu phần bồi bổ mà đứa hài nhi thụ hưởng nếu nằm đúng 9 tháng 10 ngày trong bụng mẹ. Vì thế, lớn lên tôi yếu đuối hơn những đứa trẻ đồng tuổi. Vào khoảng 16 tuổi, tôi bắt đầu tập thể dục theo phương pháp Tây phương, nhờ đó sức khỏe khá dần; lâu ngày thành thói quen, tập thể dục đối với tôi là điều không thể thiếu. Tuy nhiên, tôi vẫn bị một số bệnh mãn tính: đau dạ dày, yếu gan, tiêu chảy. Mỗi khi thay đổi thời tiết hay bị cảm, sổ mũi, nóng, ho dây dưa lâu ngày. Ngoài ra tôi còn mắc phải một vài bệnh khác tuy không nặng lắm nhưng nhiều khi cũng làm cho người bơ phờ, suy yếu.
Khi mới 37 tuổi, tôi đã bắt đầu cảm thấy những dấu hiệu của tuổi già: ngủ ít, ăn ít, đau lưng, nhức mỏi mấy khớp xương, hay quên, những bệnh mãn tính tiêu chảy, dạ dày có phần nặng hơn trước. Thêm vào đó là những mối bất hòa âm ỉ trong đời sống gia đình làm thể chất và tinh thân tôi ngày càng suy sụp. Tôi cũng nhận thấy rằng, đến tuổi xấp xỉ 40, ngoài tập thể dục theo kiểu Tây phương cần phải có một phương pháp tập thế nào có ảnh hưởng đến nội tạng, làm cho cơ thể vượng lên, thắng những tàn phá của tuổi già. Yoga đã đáp ứng nhu cầu ấy của tôi. “Tôi tập Yoga với tất cả sự kiên tâm, cần mẩn, những đức tính mà nhu cầu cần giữ sức khỏe cho một thân thể “tiên thiên bất túc” đã tạo cho tôi.
Tôi khởi sự tập vào tháng 9 năm 1977, tập mỗi ngày vào buổi sáng khi thức dậy, mỗi lần tập một giờ rưỡi, hơn 1 giờ tập các tư thế (asana) còn lại ngồi kiết già, luyện hơi thở và cùng với hơi thở, tập trung, tư tưởng vận khí, khai thông các luân xa và các huyệt đạo. Ngay từ những ngày đầu tôi đã thấy trong người có một sự đổi khác và từ đó cứ mỗi ngày là cảm thấy có một sự đổi khác. Tôi cảm thấy thêm mạnh khỏe, thêm vui tươi, thêm yêu đời. Do đó, niềm tin tưởng ở Yoga được củng cố mãi cho nên không ngày nào bỏ tập. Hai tháng sau, tức qua tháng 11 thì trong người tôi có những hiện tượng lạ lùng. Những hiện tượng lạ lùng này tôi cố gắng ghi lại tỉ mỉ để suy gẫm. Những người có kinh nghiệm về Yoga cho rằng những hiện tượng này là do số Prana tích trữ trong người qua sự luyện tập, đã đến một mức độ nào đó. Có thể là đúng vì sự vận chuyển của Prana trong người tôi trở thành cụ thể và dần dần một luồng khí xuất hiện.
Lúc đầu, sự vận chuyển của luồng khí còn lưng chừng; giữa trạng thái tưởng tượng và trạng thái thực tế, nhưng dần dần trạng thái thực tế được xác định. Luồng khí vận chuyển mạnh nhất cùng với hơi thở ra. Theo đúng phép thì hơi thở ra phải thật nhẹ và kéo thật dài, trong lúc ấy tôi thấy trước mắt (mắt vẫn nhắm) có những lọn vân trắng, từ trên tuôn xuống và bên tai có tiếng ro ro như tiếng ong kêu. Luồng khí cứ mỗi ngày mỗi mạnh thêm và từ năm 1980 đến nay, luồng khí thường xuyên chạy trong người tôi, ngày cũng như đêm. Ban ngày nếu bận việc bên ngoài thì thôi, khi để ý về bên trong, thấy luống khi vẫn chạy. Ban đêm lên giường ngủ, nằm xuống lắng nghe nó chạy và chạy nhanh, ngủ quên, lúc thức dậy vẫn nghe nó chạy.
Vào giữa năm 1981 tôi cảm thấy không cần thiết phải tập các tư thế như trước nữa. Từ đó, công phu luyện tập quy vào việc ngồi kiết già và vận khí, tức là tập trung tư tưởng, theo dõi sự vận chuyển của luồng khí và lúc bấy giờ cảm thấy thật cụ thể luồng khí đi xuyên qua các thớ thịt, các khí quản và đồng thời, thường có những âm thanh phát ra do sự di động của một khí thể xuyên qua một môi trường dịch thể. Nếu căn cứ theo quá trình tập luyện của Raja Yoga thì tôi đang ở giai doan PRATYHARA.
Về tính chất, luồng khí không hoàn toàn vô hình. Nó có một số đặc tính cụ thể: khi nó đi qua mắt thì tôi thấy những lọn vân trắng, qua tai, tôi nghe tiếng ro ro; qua cổ, tôi có cảm giác gắt gắt, chát chát. Về sự vận chuyển, ban đầu tôi cảm thấy luồng khí dường như đi dưới làn da, nhưng càng ngày nó càng đi sâu vào trong cơ thể, tận các khí quản trong nội tạng. Luồng khí thường xuyên vận chuyển trong người có những ảnh hưởng rõ rệt đối với cơ thể. Da thịt thay đổi hẳn, khác với hồi chưa tập, săn chắc, các khớp xương không còn nhức mỏi, xương sống dẻo. Tôi cảm thấy người nhanh nhẹn trở lại, đặc biệt, khi chưa tập, nét chữ tôi viết đã bắt đầu run, nay thì mạnh và sắc sảo hơn hồi con trai trẻ. Theo sách dạy về Yoga thì đây là luồng khí (prana) làm cho các tế bào trở lại. Tiếng nói ngân vang hơn và đặc biệt tiếng hát có thể kéo dài, thật dài (vì hơi thở dài hơn trước). Ngủ được nhiều. Trước kia, mỗi buổi sáng, lối bốn giờ tôi đã dậy, đầu hôm lên giường trằn trọc hàng giờ chưa ngủ được. Bây giờ lên giường tức thời theo dõi sự vận chuyển của luồng khí rồi ngủ lúc nào không hay, sáng hôm sau, nếu muốn dậy trễ cũng được. Có thể làm việc nhiều mà không thấy mệt, ban đêm, dầu có việc phải thức khuya nhưng qua hôm sau cũng không thấy lừ đừ.
Lục phủ ngũ tạng dường như được tráng kiện trở lại. Bộ máy tiêu hóa và bộ máy bài tiết thật tốt, những bệnh mãn tính hội trước: tiêu chảy, dạ dày không còn nữa. Quanh năm suốt tháng, dù thời tiết thay đổi thế nào vẫn không hề có sổ mũi, nhức đầu. Tóm lại, tôi có thể xác định rằng: công hiệu của Yoga làm cho trong thân thể người tập xuất hiện một luồng khí, thường xuyên Vận chuyển có tác dụng làm cho toàn bộ cơ thể từ da thịt đến cơ năng, lục phủ ngũ tạng dẻo dai, tráng kiện trở lại.
Đặc biệt bộ máy hô hấp có những thay đổi lạ lùng. Như trên đã nói, luồng khí vận chuyển thường xuyên và tự tạo ra những đường riêng để vận chuyển trong cơ thể và trên quá trình vận chuyển của luồng khí, tôi thấy có từng cơn nhói đau, nhưng rồi không sao cả. Có lúc luồng khí xoi nhói bộ phận nơi bên sau lỗ mũi, tiếp giáp với cuống họng, để tạo ra một đường cho hơi thở đi phía sau buồng phổi xuống bụng. Hiện tượng này xảy ra nhiều tháng và hiện nay khi tôi thở, ngoài một số hơi đi vào buồng phổi như bao nhiêu người khác, còn một số hơi đi xuống đan điền làm cho bụng phồng lên, tận đến sau lưng. Không biết trong không khí tôi hít vào phần nào đi vào phổi và phần nào đi xuống bụng, nhưng dường như phần đi xuống bụng không giống phần đi vào phổi. Phải chăng phần đi xuống bụng là prana? Tôi cảm thấy rằng phần hơi đi xuống bụng, nó không ở đó mà còn từ bụng tỏa lan khắp châu thân, xuống chân ra tay.
…..
…..
Về hiện tượng luồng khí tự động vận chuyển tạo ra những đường riêng để di chuyển và những khí quan mới trong cơ thể, từ trước đến nay triết học Đông Tây đã có chú ý tới.
Ai cũng biết trong con người có hai cái thức: một cái hướng về khách quan, có thể dùng danh từ triết học Đông phương, gọi là Dương thức và một cái thức hướng về chủ quan gọi là âm thức. Nhờ Dương thức, chúng ta tiếp xúc với hoàn cảnh khách quan, xã hội, nhưng Dương thức không biết gì bên trong con người, tình trạng của các khí quan trong nội tạng, vì đây là phạm vi hoạt động của Âm thức. Âm thức không biết gì nhiều về hoàn cảnh khách quan nhưng là chủ tể của lục phủ ngũ tạng, điều chỉnh sự hoạt động của đời sống sinh lý, bảo tồn mạng sống của sinh vật. Ẩm thức cũng là nguồn gốc của những hiện tượng có vẻ huyền bí trong con người như tiềm thức, linh cảm hay giác quan thứ sáu. Âm thức tức là sinh lực. Sinh lực nằm trong mọi sinh vật và chính sinh lực, kinh qua lịch sử của địa cầu, đã tạo nên các sinh vật muôn hình vạn trạng, tạo công năng, biến đổi hình dáng để sinh vật thích nghi với hoàn cảnh và tiếp tục sinh tồn. Đây là đề tài chính của các nhà đã đề xướng thuyết “Tiến hóa luận” (Evolutionnisme).
Sinh hoạt ẩm thức, mới nghe thấy có vẻ huyền bí, mơ hồ nay lại được cụ thể biến hóa trong cơ thể người tập Yoga bằng luồng khí thường xuyên vận chuyển, thiết tưởng đó là một phương tiện để chúng ta tìm hiểu thêm về con người. Đến đây tôi càng hiểu thấm thía câu khẳng định của các triết gia Đông Tây, bảo con người là một “tiểu vũ trụ” và lời nhận xét của nhà thơ cổ Hy Lạp SOPHOCLE trong tác phẩm Antigone: “Trái đất có muôn vàn kỳ diệu nhưng kỳ diệu nhất chỉ có CON NGƯỜI”.
Có thể bạn quan tâm: Kênh năng lượng và Luân xa đối với sức khỏe con người
—
Trích từ sách: Kinh nghiệm tập Yoga